Đu đủ là loại cây dễ trồng, mau cho trái, năng suất cao, thường được chọn là loại cây “lấy ngắn nuôi dài”, tận dụng khoảng đất trống trong những vườn cây ăn trái giai đoạn kiến thiết cơ bản. Để trồng đu đủ đạt năng suất cao, nông dân cần nắm vững đặc tính cây đu đủ, kỹ thuật trồng và phòng trừ dịch hại theo hướng an toàn, nhất là trong mùa mưa ẩm độ cao tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều bệnh phát triển.
Đu đủ nhân giống chủ yếu bằng hạt vì nhanh, rẻ và tiện lợi. Tuy nhiên, lấy hạt từ một cây đu đủ mẹ đem gieo thì được 3 nhóm cây: cây đực, cây cái và cây lưỡng tính. Cây lưỡng tính có các đặc tính mong muốn về sản lượng, chất lượng như trái dài, cơm dày; ngược lại cây cái cho dạng trái tròn, cơm mỏng, hột nhiều, năng suất thấp. Vì thế để có một vườn đu đủ trái dài, năng suất cao thì phải được trồng từ cây lưỡng tính nên khâu chọn cây con rất quan trọng, người trồng đu đủ phải quan tâm chăm sóc ngay từ khi gieo hạt.
Đu đủ được trồng từ cây cái cho trái tròn. |
Đu đủ được trồng từ cây lưỡng tính cho trái dài. |
Đu đủ thường có ít nhất 3 loại hoa: Cây cái là cây thường cho ra hoa cái, hoa cái chỉ có bầu noãn màu trắng và trên có nướm chia thành 3 chia, không có các bao phấn đực màu vàng bao chung quanh nướm, cây cái sẽ cho trái tròn. Cây lưỡng tính là cây thường cho hoa có cả bộ phận đực và cái trên cùng một hoa nên gọi là hoa lưỡng tính, hoa cũng có một bầu noãn màu trắng và chung quanh được bao bọc bằng các bao phấn nhụy đực màu vàng, cây lưỡng tính sẽ cho trái dài. Cây đực là cây thường cho toàn hoa đực, hoa không có bầu noãn, cọng hoa rất dài, không cho trái nhưng thỉnh thoảng cũng cho một vài trái rất nhỏ do hiện tượng trinh sinh quả, thường không hiệu quả trong sản xuất.
Để có vườn đu đủ trái dài, nên chú ý khi gieo hạt, chọn những hạt to, nặng và chìm khi thả trong nước để có cây con tốt, sau đó đưa cây con ra bầu để dưỡng thêm một thời gian, đem trồng mỗi mô hai bầu. Sau khi trồng 2,5 - 3 tháng (tùy theo mùa) thì cây ra hoa. Bóc những hoa đầu tiên ra xem, nếu hoa chỉ có duy nhất một bầu noãn thì đó là cây cái sau này sẽ cho trái tròn, năng suất thấp là vì cần phải có sự thụ tinh chéo (lấy phấn đực từ phấn hoa của các cây khác) nên khó đậu trái, trái nào đậu được thì to, tròn, nhiều hạt, cơm mỏng. Số còn lại bầu noãn phát triển thành trái theo lối trinh quả sinh, tức là bầu noãn phát triển thành trái không cần thụ phấn của các hoa khác, trái thường nhỏ, do đó năng suất cây cái rất thấp so với cây lưỡng tính. Quan sát hoa đầu tiên thấy hoa có bầu noãn được bao bọc bởi các túi phấn hoa đực màu vàng thì đó là cây lưỡng tính, sau này sẽ cho trái dài. Cây lưỡng tính rất dễ đậu trái, năng suất cao. Trên một mô, nên chọn để lại cây lưỡng tính, nếu mô nào không có cây lưỡng tính thì nên tìm cây lưỡng tính ở những mô khác thế vào. Nếu thực hiện được các bước trên một cách tỉ mĩ thì sẽ chọn được từ 98%-100% cây trái dài. Chú ý khảo sát hoa sớm để kịp thời loại bỏ cây cái và cây đực, tránh cạnh tranh dinh dưỡng.
Mặc dù nhu cầu nước của đu đủ rất cao nhất là giai đoạn ra hoa, đậu trái nhưng đu đủ rất mẫn cảm với sự úng nước. Do đó, khi tưới nước không nên tưới quá đẫm, cây bị úng, rễ bị thối đưa đến chết cây. Tủ gốc là một công việc rất quan trọng vừa để giữ ẩm vừa hạn chế cỏ dại. Khi cây đu đủ đã lớn khoảng 6 tháng tuổi trở lên, không nên cuốc xới sẽ dễ làm đứt rễ.
Trong mùa mưa, đu đủ rất dễ nhiễm một số bệnh như bệnh thối gốc, cháy lá, thán thư… Vào giai đoạn cây con đu đủ thường bị bệnh thối gốc. Bệnh phổ biến trên những vườn đu đủ tơ 1-2 năm tuổi hoặc ở vườn ươm cây con. Bệnh do nấm Pythium aphanidermatum gây ra. Vết bệnh đầu tiên xuất hiện ở gốc gần mặt đất, sau đó vết bệnh lớn dần ra quanh thân, có màu nâu đen, bên trong thân bị thối rửa để lại mạch xơ giống như tổ ong. Quan sát đầu tiên trên lá chuyển vàng và rụng sớm từ lá dưới lên lá trên, cây chỉ còn trơ đọt. Nếu cây đang mang trái, trái sẽ bị rụng. Cuối cùng cả cây bị chết và gãy ngang. Nấm bệnh ăn dần xuống phần rễ làm rễ thối. Những vườn đu đủ thường hay ngập, không thoát nước tốt hoặc ẩm độ quanh gốc cây càng cao bệnh càng phát triển mạnh. Nấm tồn tại trong đất, khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ tấn công cây. Vì thế, để phòng trừ bệnh thối gốc, đất trồng đu đủ cần cao ráo, thoát nước tốt, không để gốc quá ẩm. Bón nhiều phân hữu cơ để tạo đất tơi xốp, kết hợp tưới chế phẩm sinh học Trico trên vườn đu đủ con. Khi phát hiện cây bị bệnh nên nhổ và đào bỏ cả gốc, rễ mang tiêu hủy. Phát hiện sớm khi lá bắt đầu chuyển vàng, phun các nhóm thuốc có hoạt chất Metalaxyl (Ridomil-MZ, Mexyl-MZ, Vilaxyl,…) phun đẩm vào gốc hoặc tưới vào đất quanh gốc. Nếu trong vườn ươm phát hiện cây bệnh thì phun thuốc đẫm lên mặt luống.
Triệu chứng bệnh cháy lá đu đủ. |
Bên cạnh bệnh cháy lá thường xuất hiện trên những vườn đu đủ từ khi còn nhỏ đến cây mang trái. Bệnh do nấm Helminthosporium rostratum gây ra. Bệnh thường phát sinh trên những lá già. Triệu chứng đầu tiên xuất hiện những vết xanh giống như úng nước, vết úng nước thường ở chóp của các lá già, sau vết bệnh lan dần vào bên trong lá bị cháy từng mãng, nâu vàng và khô. Trường hợp bị nặng, cuống lá héo mềm, khô và rụng sớm, cây kém phát triển, năng suất giảm. Nấm bệnh tồn tại trên tàn dư cây bệnh. Quản lý bệnh cháy lá nên chăm sóc tốt cho vườn đu đủ. Khi phát hiện bệnh mới chớm sử dụng thuốc gốc đồng hoặc phun một trong các thuốc chứa hoạt chất Metalaxyl, Metiram complex,….
Triệu chứng bệnh thán thư trên trái. |
Vào giai đoạn mang trái, đu đủ thường nhiễm bệnh thán thư. Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum gloeosporioides gây ra. Ở những vùng thường xuyên nhiễm bệnh, nấm bệnh gây hại trên lá và cả trên cuống trái, thân cây. Triệu chứng trên lá đặc trưng là những đốm tròn màu vàng nhạt, phát triển nặng vết bệnh lan rộng ra, chuyển màu nâu. Nhìn kỹ trên bề mặt vết bệnh có nhiều vòng đồng tâm. Nhiều vết bệnh liên kết lại với nhau, làm lá bị cháy thành từng mãng lớn. Trên trái, vết bệnh lúc đầu là những đốm tròn úng nước, màu xanh tái, đường kính khoảng 3-5mm, hơi lõm vào thịt trái. Bệnh càng nặng, vết bệnh càng phát triển rộng ra. Buổi sáng, khi ẩm độ cao, dễ dàng nhận thấy những tơ nấm trắng phát triển ở xung quanh vết bệnh, nơi vùng bệnh bị thối ăn sâu vào thịt trái. Nấm có thể gây hại từ khi trái còn xanh đến khi trái chín. Trái bị nhiễm sớm sẽ bị biến dạng hay héo khô, có màu nâu. Bệnh gây hại trên cuống trái làm cuống trái bị thối và trái rụng sớm. Trên thân, vết bệnh cũng là những đốm nâu, hơi lõm. Nấm phát triển mạnh ở những vườn đu đủ trồng dày, ẩm độ cao, mưa nhiều. Nấm tồn tại ở dạng bào tử trên tàn dư cây bệnh, trong đất. Thăm vườn thường xuyên, phát hiện khi bệnh chớm xuất hiện, sử dụng nhóm thuốc chứa hoạt chất Propineb (Antracol 70WP,…) hoặc Azoxystrobin ( Amistar 250SC, …).
Nguyên tắc chung để quản lý bệnh nên áp dụng biện pháp tổng hợp, quan tâm đến kỹ thuật canh tác ngay từ khi mới trồng như mật độ vừa phải hợp lý, tránh trồng quá dày. Vườn đu đủ cần cao ráo, thoát nước tốt. Bón nhiều phân hữu cơ để tạo đất tơi xốp kết hợp chế phẩm sinh học Trichoderma. Khi phát hiện bệnh nên thu gom và tiêu huỷ các bộ phận bị bệnh để tránh lây lan.
Đu đủ được thu hoạch liên tục nên khi sử dụng thuốc giai đoạn mang trái cần ưu tiên nhóm thuốc sinh học và tuyệt đối đảm bảo đúng thời gian cách ly để an toàn cho sức khoẻ người tiêu dùng. Lưu ý, đu đủ rất mẫn cảm đối với các loại thuốc nhũ dầu, dễ gây cháy lá, do đó không được pha thuốc quá liều hướng dẫn trên nhãn thuốc và nên phun vào lúc chiều mát.
Nguồn: dost-bentre.gov.vn